I. Triệu chứng ung thư gan
Khi các triệu chứng của ung thư gan bắt đầu xuất hiện, chúng thường bị chẩn đoán nhầm với nhiều bệnh khác, có thể gần giống với đau dạ dày, đầy hơi chán ăn nên người bệnh chỉ đi khám dạ dày, có người lại nhầm lẫn với viêm túi mật. Khi cơ thể bắt đầu xuất hiện các triệu chứng khó chịu, cần phải phân biệt chính xác các triệu chứng thực thể, do đó chúng ta nên đến bệnh viện hoặc các cơ sở y tế để tiến hành khám và chẩn đoán chi tiết về bệnh ung thư gan, làm giảm thiểu nguy cơ chẩn đoán sai dẫn đến điều trị không chính xác.
Chuyên gia ung thư của bệnh viện Ung Thư St. Stamford chỉ ra rằng ung thư gan giai đoạn đầu thường không có triệu chứng điển hình và dễ dàng bị bỏ qua.
>> Nếu quý vị bị chẩn đoán mắc Ung thư gan, hãy đến với chúng tôi
Hãy đi khám và tầm soát ung thư gan khi xuất hiện một số triệu chứng sau:
1. Giảm đáng kể cảm giác ngon miệng: đầy hơi, khó tiêu, đôi khi buồn nôn và nôn. Nếu nghi ngờ có vấn đề về gan, có thể tiến hành siêu âm gan để kiểm tra, đây là phương pháp hiệu quả mà không gây ra cho các mô cơ thể bất kỳ tác dụng phụ nào.
2. Đau âm ỉ vùng thượng vị bên phải: vùng gan có thể bị đau liên tục hoặc thành từng cơn, đôi khi có thể do khối u di chuyển khiến cơn đau nặng hơn. Vùng gan bị đau cần được tiến hành chụp CT để hiển thị rõ ràng kích thước, số lượng, hình dạng, vị trí, ranh giới, lưu lượng máu cung cấp cho khối u tại gan, cũng như sự liên quan với các ống và mạch máu trong gan.
3. Chảy máu: thường biểu hiện qua chảy máu mũi, chảy máu dưới da...
4. Mệt mỏi, sút cân, bị sốt và phù nề không rõ nguyên nhân.
5. Vàng da, bụng trướng nước, da bị mẩn ngứa.
Chuyên gia ung thư của bệnh viện Ung Thư St. Stamford cho biết, một số triệu chứng điển hình của ung thư gan thường xảy ra khi bệnh tình đã tiến triển đến giai đoạn giữa và cuối, khi đó người bệnh thường đã mất đi cơ hội điều trị bằng phẫu thuật, do đó việc tự khám và kiểm tra sức khỏe bản thân hàng ngày là rất quan trọng.
Khi thường xuyên cảm thấy mệt mỏi và không thuyên giảm kể cả khi nghỉ ngơi, rất có khả năng đây là biểu hiện sớm của bệnh lý tại gan: cảm giác bí bách tức ngực, cảm giác đau âm ỉ, khó chịu hoặc đau tức vùng hạ sườn phải, sút cân, đôi khi có sốt không rõ nguyên nhân và xuất hiện vàng da...
Khi xuất hiện các triệu chứng nêu trên, không nhất định là bạn đã mắc ung thư gan, nhưng chúng ta vẫn nên mau chóng tới các cơ sở y tế để tiến hành các kiểm tra có liên quan đối với bệnh lý tại gan, xác định rõ tình hình bệnh, tiến hành điều trị kịp thời. Ung thư gan giai đoạn đầu nếu được tiến hành điều trị hiệu quả và kịp thời, sẽ kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh lên rất nhiều.
>> Nếu quý vị bị chẩn đoán mắc Ung thư gan, hãy đến với chúng tôi
II. Chẩn đoán bệnh ung thư gan
Ung thư gan là loại bệnh có tỷ lệ cao trong số các loại bệnh ung thư, gây tổn hại rất lớn đến mọi người. Ý nghĩa kiểm tra các dấu hiệu triệu chứng của bệnh ung thư là thông qua cơ thể xuất hiện một số tín hiệu, phát hiện và xác định xem có phải ung thư không. Một khi trong sinh hoạt thường ngày phát hiện cơ thể bản thân có những bất thường, cần phải đến bệnh viện để kiểm tra.
Chuyên gia ung thư của Bệnh viện ung thư Stamford cho biết, phát hiện ung thư gan sớm sau khi điều trị có tỷ lệ sống trên 5 năm có thể đạt 70%, trong khi ở những bệnh nhân giai đoạn cuối chỉ có một nửa cơ hội sống sót. Do đó, hiểu rõ về chẩn đoán ung thư gan là rất quan trọng, phát hiện sớm và chẩn đoán sớm là một mắc xích quan trọng trong điều trị.
Vậy chẩn đoán ung thư gan gồm những phương pháp nào?
1.Siêu âm kiểm tra: rất có giá trị đối với chẩn đoán các loại bệnh u gan, có thể hiển thị kích thước khối u, hình dạng .Chẩn đoán này có tỷ lệ chính xác là 84%,khả năng phát hiện khối u có đường kính 2cm hoặc nhỏ hơn. Đây là một phương pháp kiểm tra không xâm lấn, vô hại với cơ thể con người. Khi cơ thể xuất hiện tình trạng sụt cân, mệt mỏi, đau gan và các triệu chứng khác mà nghi ngờ là triệu chứng của ung thư gan , có thể thực hiện kiểm tra này.
2.Chụp CT kiểm tra: chụp CT có độ phân giải cao, có thể phát hiện thấy ung thư gan giai đoạn sớm với đường kính khoảng 1.0cm, đối với ung thư gan thì chẩn đoán này có tỷ lệ chính xác lên đến 90%, nhưng chi phí rất tốn kém. Vì vậy, vẫn chưa được áp dụng phổ biến.
3.Chụp MRI kiểm tra: Có thể cải thiện tỷ lệ phát hiện ung thư biểu mô tế bào gan nhỏ, đồng thời giúp ích rất nhiều trong việc nhận dạng ung thư gan và tăng sản dạng nốt cục bộ trong gan, u tuyến gan, v.v…, có thể xem như là một bổ sung quan trọng cho kiểm tra CT.
4.Chất chỉ điểm AFP: Trong thực hành lâm sàng, AFP thường được sử dụng trong chẩn đoán ung thư gan, phương pháp này đơn giản và thiết thực. Mức bình thường đối với hầu hết những người trưởng thành khỏe mạnh là từ 0 - 8 ng/mL.Khi bạn mắc bệnh gan mà nồng độ AFP trên 200 ng/ml thì rất có thể bạn bị ung thư gan.
5.Chọn lọc động mạch khoang bụng hoặc động mạch gan để chụp X-quang kiểm tra: đối với khối u có nhiều mạch máu, đôi khi có thể hiển thị khối u có đường kính 0,5-1cm của bệnh, chẩn đoán này có độ chính xác lên đến 90%. Có thể xác định vị trí tổn thương, kích thước và phân bố, đặc biệt trong chẩn đoán định vị ung thư biểu mô tế bào gan nhỏ là phương pháp kiểm tra tốt nhất trong các loại kiểm tra hiện nay.
Điều kiện đầu tiên quyết định cho việc điều trị ung thư gan hiệu quả là chẩn đoán chính xác giai đoạn sớm. Với những tiến bộ trong công nghệ y tế, mô hình điều trị toàn diện liên tục được sử dụng, hiệu quả điều trị ung thư gan giai đoạn đầu đã được cải thiện đáng kể. Chuyên gia của bệnh viện ung thư Stamford cho biết: Điều trị ung thư gan cần chú ý mức độ ác tính của tình trạng bệnh nhân, sử dụng phương pháp điều trị, yếu tố thể chất và tâm lý, v.v… Những yếu tố này đều có thể chi phối hiệu quả điều trị và thời gian sống của bệnh nhân ung thư gan, tất nhiên, nếu trong giai đoạn đầu sử dụng phương án điều trị hợp lý và hiệu quả, khả năng tồn tại lâu dài của ung thư gan giai đoạn đầu vẫn còn rất lớn.
III. Giai đoạn ung thư và Di căn
Phân loại giai đoạn phát triển của bệnh ung thư gan
Ung thư gan là một mối quan tâm đối với toàn thế giới, bởi trong những năm qua, tỷ lệ người mắc ung thư gan ngày một tăng lên. Phát hiện bệnh ở những giai đoạn đầu đặc biệt quan trọng, giúp tăng tỷ lệ sống của bệnh nhân.
Giai đoạn 1: Cơ thể chưa có những biểu hiện khác lạ
- Khối u nằm trong 1 phần của gan, chưa xâm lấn vào các mạch máu và có đường kính nhỏ hơn 2cm
- Chưa di căn vào các hạch
- Không có di căn sang các vùng khác của cơ thể
Giai đoạn 2: Bệnh nhân lúc này bị rối loạn tiêu hóa nhẹ, ăn không ngon, đại tiện khó khăn, tình thoảng thấy chướng bụng, nếu không để ý rất khó phát hiện. Là khối u nguyên phát phát triển theo các hướng:
- Khối u nằm trong gan có đường kính nhỏ hơn 2cm, đã xâm lấn vào mạch máu
- Có nhiều khối u, nhưng chỉ khu trú trong 1 thùy và không có khối u vượt quá 2cm và chưa xâm lấn vào mạch máu
- Một khối u đơn độc có kích thước hơn 2cm nhưng chưa xâm lấn vào mạch máu
- Không di căn vào hạch
- Không di căn sang các bộ phận khác của cơ thể
Giai đoạn 3: Bệnh nhân thường thấy đau hạ sườn bên phải, thỉnh thoảng đau quăn thành từng cơn, rối loạn tiêu hóa xuất hiện thường xuyê hơn, da bắt đầu nhợt nhạt. Bệnh nhân bắt đầu sút cân, sốt nhẹ
Giai đoạn 3A: Khối u nguyên phát có thể phát triển theo một số hướng
- Khối u đơn độc có đường kính lớn nhất trên 2 cm và đã xâm lấn vào mạch máu;
- Nhiều khối u nhưng chỉ khu trú ở một thùy, không có khối u nào có đường kính trên 2 cm và đã xâm lấn vào mạch máu;
- Nhiều khối u có đường kính lớn nhất trên 2 cm, chỉ khu trú ở một thùy, chưa xâm lấn hoặc đã xâm lấn vào mạch máu.
- Không di căn vào hạch
- Không di căn sang các bộ phận khác của cơ thể
Giai đoạn 3B: Giai đoạn này chia làm 3 giai đoạn
Trường hợp 1:
- Khối u nằm đơn độc trong một phần của gan, chưa xâm lấn vào mạch máu và có đường kính nhỏ hơn 2 cm
- Có di căn vùng hạch
- Không có di căn xa
Trường hợp 2: Khối u nguyên phát có thể phát triển theo các hướng:
- Khối u nằm đơn độc trong gan với đường kính nhỏ hơn 2 cm, đã xâm lấn vào mạch máu; nhiều khối u nhưng chỉ khu trí ở một thùy, không có khối u nào có đường kính trên 2 cm và chưa xâm lấn vào mạch máu; một khối u đơn độc với đường kính trên 2 cm nhưng chưa xâm lấn vào mạch máu
- Có di căn vùng hạch
- Không có di căn xa
Trường hợp 3: Khối u nguyên phát có thể phát triển theo một số hướng:
- Khối u đơn độc có đường kính lớn nhất trên 2 cm và đã xâm lấn vào mạch máu; nhiều khối u nhưng chỉ khu trí ở một thùy, không có khối u nào có đường kính trên 2 cm và xâm lấn vào mạch máu; nhiều khối u có đường kính lớn nhất trên 2 cm, chỉ khu trú ở một thùy, chưa xâm lấn hoặc đã xâm lấn vào mạch máu
- Có di căn vùng hạch
- Không có di căn xa
Giai đoạn 4: Gan gần như tê liệt hoàn toàn, gan bị sưng to, nếu siêu am thấy bụng có nước, cổ trướng, bệnh nhân sút cân trầm trọng, da vàng vọt, xanh xao, kèm theo đó là những cơn đau quặn ở vùng gan.
Giai đoạn 4-A
- Nhiều khối u ở nhiều thùy hay các khối u xâm lấn vào các nhánh chính của tĩnh mạch gan hoặc xâm lấn vào các cơ quan lân cận ngoài trừ túi mật
- Có di căn vào vùng hạch hoặc hạch vùng không thể đánh giá được. Các hạch vùng bao gồm hạch rốn gan, những hạch nằm dọc theo tĩnh mạch chủ dưới động mạch gan và tĩnh mạch cửa
- Không có di căn xa
Giai đoạn 4-B
- Nhiều khối u ở nhiều thùy hay các khối u xâm lấn vào các nhánh chính của tĩnh mạch gan hoặc xâm lấn vào các cơ quan khác
- Có di căn vào vùng hạch hoặc hạch vùng không thể đánh giá được. Các hạch vùng bao gồm hạch rốn gan, những hạch nằm dọc theo tĩnh mạch chủ dưới động mạch gan và tĩnh mạch cửa
- Di căn xa, di căn thường xuất hiện ở xương và phổi. Khối u có thể lan qua bao gan tới cơ hoành.
Tiên lượng sống: Tỷ lệ sống nói chung của bệnh ung thư gan trong vòng năm năm sau khi chẩn đoán là khoảng 9%. Phát hiện càng sớm và điều trị tích cực thì tỷ lệ sống của bệnh nhân càng cao.
Giai đoạn chưa xâm lấn (tại chỗ): Khi ung thư gan được phát hiện trong giai đoạn đầu, khoảng 19% số bệnh nhân có khả năng sống sót trong 5 năm trở lên. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 30% số bệnh nhân phát hiện ra bệnh ở giai đoạn đầu.
Giai đoạn xâm lấn: Khoảng 26% trường hợp được chẩn đoán khi bệnh ung thư đang trong giai đoạn thứ hai. Ở giai đoạn này, ung thư đã lan rộng ra khỏi vị trí ban đầu, nhưng mới chỉ xuất hiện ở các hạch bạch huyết.
Tiên lượng sống cho ung thư gan giai đoạn 2 là khoảng 6,5% số bệnh nhân có khả năng sống trong 5 năm.
Ung thư gan di căn: Gần 22% trường hợp ung thư gan được chẩn đoán đã ở giai đoạn cuối. Ở giai đoạn này, ung thư đã bắt đầu xâm nhập vào các cơ quan xa. Tỷ lệ sống sót sau năm năm đối với ung thư gan di căn là khoảng 3,5%.
>> Nếu quý vị bị chẩn đoán mắc Ung thư gan, hãy đến với chúng tôi
IV. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
Ngoài hướng điều trị truyền thống là phẫu thuật và hóa xạ trị , bệnh viện ung thư Stamford chuyên áp dụng các phương pháp xâm lấn tối thiểu như:
Dao lạnh, cấy hạt phóng xạ, vi sóng, Miễn Dịch Tế Bào, ĐÔng Tây Y Kết Hợp , Can Thiệp Mạch Cục Bộ,vv....
Tùy thuộc vào từng tình trạng bệnh , mức độ xâm lấn di căn bệnh. Bệnh viện ung thư Stamford sẽ có phác đồ điều trị tương ứng với các phương pháp phù hợp.